GIẢI PHẪU-MÔ HỌC-SINH LÝ ĐẠI TRÀNG
Hiểu được các vị trí giải phẫu, cấu trúc cũng như sinh lý của đại tràng góp phần giúp bạn hiểu rõ hơn về bệnh lý và phương cách điều trị bệnh.
Giải phẫu
Đại tràng cũng được gọi là ruột già. Hồi tràng (đoạn cuối của ruột non) nối với đại tràng qua van hồi manh tràng ở vùng bụng dưới bên phải. Từ van hồi manh tràng, ruột già tạo thành một dạng chữ "T" mở rộng về phía trên và dưới. Đoan đại tràng chạy xuống dưới tạo thành một đoạn ruột tận, ngắn gọi là manh tràng kết nối với ruột thừa. Đại tràng được chia thành 4 phần:
Đại tràng lên: chạy lên phía trên ở bên phải ổ bụng.
Đại tràng ngang: ngay dưới cơ hoành, đại tràng lên chạy gập góc 900 ở góc gan hướng về giữa bụng và sang trái.
Đại tràng xuống: ở bên trái ổ bụng, đại tràng ngang chạy gập góc 900 ở góc lách xuống dưới bên trái ổ bụng.
Đại tràng chậu hông (đại tràng sigma): cuối đại tràng xuống, đại tràng uốn cong nhẹ vào giữa bụng hình thành đại tràng sigma có dạnh hình chữ “S” trước khi kết nối với trực tràng.
Mô học
Giống như các phần khác của ống tiêu hóa, đại tràng bao gồm 4 bốn lớp mô:
Lớp trong cùng, gọi là niêm mạc, được làm từ tế bào biểu mô hình trụ đơn giản.
Bao quanh niêm mạc là một lớp mạch máu, dây thần kinh và các mô liên kết được gọi lớp dưới niêm mạc.
Các lớp cơ bao quanh lớp dưới niêm mạc và chứa nhiều lớp tế bào cơ tạng giúp cho sự co bóp và nhu động của ruột già.
Thanh mạc tạo thành lớp ngoài cùng. Các thanh mạc là một lớp mỏng tế bào biểu mô vảy.
Sinh lý
Khoảng 90% các chất dinh dưỡng có trong thức ăn được tiêu hóa đã được hấp thụ ở thời điểm nó đến đai tràng. Thức ăn còn lại này (được gọi là nhũ trấp) trộn lẫn với các vi khuẩn trong manh tràng và đại tràng lên để tạo thành phân. Khi phân đi qua đại tràng lên, vi khuẩn ăn các chất thải mà cơ thể con người không thể tiêu hóa (lên men) và giải phóng vitamin K, B1, B2, và B12. Thành đại tràng hấp thu các vitamin này cùng với hầu hết nước trong phân. Trong điều kiện bình thường, phân trong đại tràng ở dạng như chất thải lỏng và ra khỏi đại tràng như một chất thải rắn đặc. Sự hấp thu nước của đại tràng giúp duy trì cân bằng nước nội mô trong cơ thể và ngăn ngừa mất nước.
Đại tràng ngang trộn và đẩy phân đi theo chiều dài của nó. Bởi vì phân đươc trộn lẫn, vi khuẩn lên men các chất thải để giải phóng các loại vitamin và một vài dấu vết các chất dinh dưỡng còn lại trong chất thải. Nước, chất dinh dưỡng và vitamin được hấp thu qua thành của đại tràng để được sử dụng bởi các mô của cơ thể.
Ở thời điểm phân xuống tới đại tràng xuống, phần lớn các chất dinh dưỡng, vitamin và nước đã được tách ra ở đại tràng lên và đại tràng ngang, còn lại chủ yếu là chất thải. Đại tràng xuống vẫn còn hấp thụ nước và vitamin được sản xuất bởi sự lên men vi khuẩn của phân, bao gồm vitamin K, B1, B2 và B12. Tuy nhiên, chức năng chính của đại tràng xuống là lưu trữ và tích lũy phân trước khi đi cầu. Trong thời gian đi cầu, đại tràng xuống giúp đẩy phân xuống đại tràng sigma và trực tràng, cuối cùng ra khỏi cơ thể bằng cách co thắt cơ trơn của nó.
Ở thời điểm thức ăn tiêu hóa (được gọi là nhũ trấp) đến ruột già, gần như tất cả các chất dinh dưỡng sẵn có trong nhũ trấp đã được hấp thụ. Phân vào đại tràng sigmoid hầu hết đã hoàn tất quá trình lên men vi khuẩn và hầu hết nước, các ion và vitamin đã được hấp thu từ các phần trước của đại tràng. Như vậy, vai trò chính của đại tràng sigmoid là lưu trữ phân và đẩy phân vào trực tràng. Lớp cơ ở đại tràng sigmoid giữ một vai trò quan trọng trong việc kiểm soát tống xuất phân khi đi cầu Một số nước và vitamin K, B1, B2 và B12 cũng được hấp thu từ phân được lưu trữ trong đại tràng sigmoid.