3 năm trước 435

CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ GÂY UNG THƯ DẠ DÀY

Yếu tố nguy cơ là bất cứ điều gì làm tăng khả năng mắc bệnh, chẳng hạn như ung thư. Bệnh ung thư khác nhau có các nguy cơ khác nhau. Một số yếu tố nguy cơ, như hút thuốc, có thể được thay đổi. Những yếu tố khác, chẳng hạn như tuổi hoặc tiền sử gia đình, không thể thay đổi được.
Có một yếu tố nguy cơ, hoặc thậm chí một số yếu tố nguy cơ, không có nghĩa là bạn sẽ mắc bệnh. Nhiều người có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ không bao giờ bị ung thư, trong khi những người khác bị ung thư có thể có ít hoặc không có yếu tố nguy cơ đã biết
.

 

Giới tính
Ung thư dạ dày gặp ở nam nhiều hơn ở nữ.

 

Tuổi
Tỉ lệ mắc bệnh ung thư dạ dày tăng lên rõ rệt ở những người trên 50 tuổi. Hầu hết mọi người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư dạ dày ở độ tuổi 60 – 80. Tuy nhiên, bệnh có xu hướng được phát hiện ở người trẻ tuổi ngày càng tăng và thường có tiên lượng xấu.

 

Chủng tộc
Tại Hoa Kỳ, ung thư dạ dày phổ biến hơn ở người Mỹ gốc Tây Ban Nha, người Mỹ gốc Phi, và Mỹ gốc Châu Á / Thái Bình Dương hơn là ở người da trắng không gốc Tây Ban Nha.

 

Vị trí địa lý
Trên thế giới, ung thư dạ dày phổ biến hơn ở Nhật Bản, Trung Quốc, Nam và Đông Âu, Nam và Trung Mỹ. Bệnh ít phổ biến ở Bắc và Tây Phi, Nam Trung Á và Bắc Mỹ.

 

Nhiễm Helicobacter pylori
Nhiễm Helicobacter pylori (H. pylori) đặc biệt là một số kiểu gen nhất định (vacAs1, vacAm1 và cagA dương tính), dường như là nguyên nhân chính gây ung thư dạ dày, đặc biệt là ung thư ở phần dưới (xa) của dạ dày. Nhiễm H. pylori lâu ngày có thể dẫn đến viêm teo và những thay đổi tiền ung thư khác ở niêm mạc dạ dày. Trong thực tế, các bệnh nhân ung thư dạ dày thường có tỷ lệ nhiễm H. pylori cao hơn những người không bị ung thư dạ dày. Mặc dù vậy, hầu hết những người nhiễm HP không bao giờ mắc ung thư.

 

Chế độ ăn
Nguy cơ ung thư dạ dày tăng cao ở những người có chế độ ăn một lượng lớn các loại thực phẩm được bảo quản bằng muối như: cá, thịt, rau muối.
Thường xuyên ăn thịt chế biến, nướng hoặc nướng than làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày ngoài vùng tâm vị.
Ăn ít hoặc không ăn trái cây có thể làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày. Mặt khác, ăn nhiều trái cây tươi (đặc biệt là trái cây họ cam quýt) và rau sống có vẻ làm giảm nguy cơ ung thư dạ dày.

 

Hút thuốc lá và uống rượu
Hút thuốc và uống rượu làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày.
Những người uống từ 3 ly trở lên một ngày có mối liên quan rõ rệt với ung thư dạ dày.
Tỷ lệ ung thư dạ dày gấp đôi ở người hút thuốc và ung thư liên quan đến phần gần của dạ dày (phần gần thực quản-tâm vị).

 

Thừa cân và béo phì
Thừa cân hoặc béo phì có khả năng là nguyên nhân gây ung thư tâm vị (phần trên của dạ dày gần thực quản).

 

Tiền sử phẫu thuật dạ dày
Ung thư dạ dày có nhiều khả năng phát triển ở những người đã cắt một phần dạ dày để điều trị bệnh không phải ung thư chẳng hạn như loét. Loại ung thư này thường phát triển trong nhiều năm sau khi phẫu thuật.

 

Một số loại polyp dạ dày
Hầu hết polyp không phải ung thư trên niêm mạc dạ dày (như polyp tăng sản hoặc polyp viêm) dường như không làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư dạ dày, nhưng polyp tuyến - còn gọi là u tuyến - đôi khi có thể phát triển thành ung thư.

 

Thiếu máu ác tính
Một số tế bào nhất định trong niêm mạc dạ dày thường tạo ra một chất gọi là yếu tố nội tại (intrinsic factor: IF) mà cơ thể cần để hấp thụ vitamin B12 từ thực phẩm. Những người không có đủ IF có thể bị thiếu hụt vitamin B12, ảnh hưởng đến khả năng tạo ra các tế bào hồng cầu mới của cơ thể và cũng có thể gây ra các vấn đề khác. Tình trạng này, được gọi là thiếu máu ác tính, có thể do một số tình trạng tự miễn dịch nhất định, cũng như do một số loại phẫu thuật dạ dày gây ra. Cùng với thiếu máu (quá ít hồng cầu), người mắc bệnh này tăng nguy cơ mắc ung thư dạ dày.

 

Bệnh Menetrier (viêm dạ dày phì đại)
Sự phát triển quá mức của niêm mạc dạ dày tạo ra các nếp gấp lớn ở niêm mạc và dẫn đến lượng axit trong dạ dày thấp. Đây là bệnh rất hiếm nên không biết chính xác bệnh này làm tăng nguy cơ ung thư dạ dày đến mức nào.

 

Nhóm máu A
Người máu A có nguy cơ cao bị ung thư dạ dày dù chưa rõ nguyên nhân.

 

Hội chứng ung thư di truyền
Một số bệnh di truyền có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư dạ dày.


     Hội chứng Lynch. Cũng có thể được gọi là “ung thư đại trực tràng không đa polyp di truyền” (HNPCC), một bệnh di truyền có tính chất gia đình. Hội chứng này thường có liên quan với tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng nhưng cũng có gây ra ung thư dạ dày.
     Ung thư dạ dày lan tỏa di truyền (HDGC: Hereditary diffuse gastric cancer). Mặc dù hiếm, những người thừa hưởng đột biến gen này (CDH1) có 70-80% nguy cơ phát bệnh ung thư dạ dày trong suốt cuộc đời của họ. Ngoài ra, phụ nữ có khiếm khuyết di truyền này làm tăng nguy cơ ung thư vú.
     Đa polyp tuyến gia đình (FAP: Familial adenomatous polyposis). Hội chứng này gây ra polyp ở đại tràng, dạ dày và ruột. Hội chứng này thường gây ra bởi đột biến của gen APC, làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư đại trực tràng và có thể đóng một vai trò nhỏ trong việc gia tăng nguy cơ ung thư dạ dày của một người.
     BRCA1 và BRCA2. Đột biến di truyền ở các gen BRCA1 và BRCA2 thường gắn liền với nguy cơ cao mắc ung thư vú. Những người được thừa hưởng những đột biến di truyền cũng có nguy cơ gia tăng ung thư dạ dày.
     Hội chứng Li-Fraumeni. Những người bị hội chứng này có nguy cơ gia tăng của một số loại ung thư, bao gồm cả việc phát triển bệnh ung thư dạ dày ở độ tuổi tương đối trẻ. Hội chứng Li-Fraumeni được gây ra bởi một đột biến ở gen TP53.
     Hội chứng Peutz-Jeghers (PJS). Những người có hội chứng này phát triển polyp ở dạ dày và ruột, cũng như ở các cơ quan khác bao gồm mũi, đường hô hấp và bàng quang. Các polyp ở dạ dày và ruột là một loại đặc biệt gọi là hamartoma (mô thừa dạng bướu). Nó có thể gây chảy máu hoặc tắc ruột. PJS cũng có thể gây ra các đốm tàn nhang đậm giống như trên môi, bên trong má và các vùng khác. Những người có PJS có nguy cơ cao mắc bệnh ung thư vú, đại tràng, tuyến tụy, dạ dày và một số cơ quan khác. Hội chứng này được gây ra bởi đột biến ở gen STK1.


     U tuyến dạ dày và polyp đoạn gần của dạ dày (GAPPS: Gastric adenoma and proximal polyposis of the stomach). Tình trạng hiếm gặp này là do đột biến ở một phần cụ thể của gen APC. Những người bị GAPPS phát triển nhiều polyp trong dạ dày và tăng nguy cơ ung thư dạ dày.

 

Tiền sử gia đình ung thư dạ dày
Những người có người thân kế cận (cha mẹ, anh chị em, hoặc con) bị ung thư dạ dày có nhiều khả năng phát triển bệnh này.

 

Nhiễm virus Epstein-Barr (EBV)
EBV gây bệnh nhiễm trùng do tăng bạch cầu đơn nhân. Hầu như tất cả người lớn đã bị nhiễm virus này tại một số thời điểm trong cuộc đời của họ, thường là trẻ em hoặc thanh thiếu niên.
EBV có liên quan đến một số dạng ung thư hạch. Khoảng 5-10% virus này được tìm thấy trong các tế bào ung thư ở những người bị ung thư dạ dày. Những người này có xu hướng phát triển chậm hơn, ung thư tiến triển chậm và xâm lấn ít hơn. EBV đã được tìm thấy trong một số tế bào ung thư dạ dày, nhưng nó có thực sự gây ra ung thư dạ dày hay không vẫn chưa rõ ràng.

 

Một số ngành nghề
Công nhân mỏ than đá, kim loại và các ngành công nghiệp cao su dường như có nguy cơ cao bị ung thư dạ dày.

 

Suy giảm miễn dịch đa dạng thông thường (CVID: Common variable immune deficiency).
Những người bị CVID có tăng nguy cơ ung thư dạ dày. Hệ thống miễn dịch của người có CVID không thể tạo đủ kháng thể để đáp ứng với vi trùng. Những người có CVID có nhiễm trùng thường xuyên cũng như các vấn đề khác, bao gồm viêm teo dạ dày và thiếu máu ác tính. Bệnh cũng có nhiều khả năng liên quan đến lymphoma dạ dày và ung thư dạ dày.

 

Update 21/05/2021
TS. BS ĐỖ MINH HÙNG